Bàn về đạo đức khoa học

Bàn về đạo đức khoa học

Đạo đức khoa học là một vấn đề quan trọng và cơ bản trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học (NCKH), thu hút sự quan tâm, chú ý không chỉ của giới khoa học mà của toàn xã hội. Tuy nhiên, các chuẩn mực đạo đức khoa học cụ thể là gì thì không dễ có câu trả lời.

Theo tác giả, các tiêu chuẩn đạo đức khoa học được tóm lược qua 6 nguyên tắc: Thành thật tri thức, cẩn thận, tự do tri thức, cởi mở – công khai, ghi nhận công trạng thích hợp, trách nhiệm trước công chúng.

Mỗi ngành, nghề trong xã hội, nhất là những nghề có liên quan đến sự an sinh của con người hay có ảnh hưởng đến một quần thể lớn, đều có những chuẩn mực về đạo đức hành nghề. Chẳng hạn như nghề y có các tiêu chuẩn về y đức mà bất cứ sinh viên y khoa nào mới ra trường đều phải “nằm lòng”, hay trong giới luật sư có những quy ước đạo đức cho việc hành nghề. Mới đây, trước những “lem nhem” của một số thầy cô giáo, có người kêu gọi nên phát triển những tiêu chuẩn đạo đức cho nghề sư phạm. Hoạt động khoa học (HĐKH) nói chung và NCKH nói riêng có ảnh hưởng lớn đến xã hội và con người, cho nên các chuẩn mực đạo đức đóng một vai trò rất cơ bản đối với các nhà khoa học.

Chuẩn mực đạo đức không phải là luật pháp, mà là những quy ước hay điều lệ về hành xử được các thành viên trong ngành nghề chuyên môn chấp nhận như là những kim chỉ nam cho việc hành nghề. Các quy ước này cho phép, nghiêm cấm, hay đề ra thủ tục về cách hành xử cho các tình huống khác nhau. Trong HĐKH, hai chữ “hành xử” ở đây bao gồm các lĩnh vực chuyên biệt như thí nghiệm, xét nghiệm, giảng dạy và huấn luyện, phân tích dữ liệu, quản lý dữ liệu, chia sẻ dữ liệu, xuất bản ấn phẩm, trình bày công trình nghiên cứu trước công chúng và quản lý tài chính.

Vậy các chuẩn mực đạo đức khoa học cụ thể là gì? Khó có câu trả lời cho câu hỏi này, bởi vì HĐKH cực kỳ đa dạng, do đó các chuẩn mực đạo đức thường tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn, các tiêu chuẩn đạo đức cho ngành khoa học nông nghiệp khác với các bộ môn khoa học liên quan đến động vật như y sinh học. Tuy nhiên, theo tôi, có thể tóm lược các tiêu chuẩn đạo đức khoa học qua 6 nguyên tắc cơ bản sau đây:

Nguyên tắc thứ nhất là thành thật tri thức (intellectual honesty). Sứ mệnh của khoa học là khai hóa, quảng bá và phát triển tri thức. Tri thức khoa học dựa vào sự thật, mà sự thật đó phải được quan sát hay thu thập bằng những phương pháp khách quan. Khoa học dựa vào những sự thật có thể nhìn thấy, có thể nghe thấy, có thể sờ được, chứ không dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay suy luận theo cảm tính. Do đó, khoa học đặt sự thật khách quan trên hết và trước hết. Không có sự khách quan và không có sự thành thật thì khoa học không có ý nghĩa gì cả. Nhà khoa học phải khách quan và thành thật. Nguyên tắc thành thật tri thức được xem là một cột trụ cơ bản nhất trong các nguyên tắc về đạo đức khoa học. Theo đó, nhà khoa học phải tuyệt đối thành thật với những gì mình quan sát hay nhận xét. Nói cách khác, nhà khoa học không nên gian lận trong nghiên cứu, không giả tạo dữ liệu, không thay đổi dữ liệu, và không lừa gạt đồng nghiệp.

Nguyên tắc thứ hai là cẩn thận. Nhà khoa học phải phấn đấu hết mình để tránh các nhầm lẫn và sai sót trong tất cả các HĐKH. Họ có nghĩa vụ phải báo cáo đầy đủ, chi tiết những kết quả đạt được trong quá trình nghiên cu để các nhà khoa học khác có thể thẩm định hay xác nhận (nếu cần thiết). Bất cứ một thay đổi về số liệu, dữ liệu thu thập được đều phải có chú thích rõ ràng (ví dụ, ghi rõ ngày tháng sửa, ai là người chịu trách nhiệm và tại sao thay đổi). Khi làm việc như thế, việc sử dụng các phương pháp phi chính thống hay phương pháp phân tích và cách diễn dịch có thể dẫn đến những tiến bộ khoa học. Tuy nhiên, nếu cách làm việc này chỉ nhằm vào mục đích đạt được kết luận mà nhà khoa học muốn có thì rất dễ dẫn tới vi phạm đạo đức khoa học.

Nguyên tắc thứ ba là tự do tri thức. Nói một cách ví von, khoa học không bao giờ dừng lại trong hành trình đi tìm sự thật, vì đây là một hành trình liên tục. Nhà khoa học cần được tạo điều kiện để theo đuổi những ý tưởng mới và phê phán những ý tưởng cũ. Họ cũng có quyền thực hiện những nghiên cứu mà họ cảm thấy thú vị và đem lại phúc lợi cho xã hội.

Nguyên tắc thứ tư là cởi mở và công khai. NCKH mang tính tương tác rất cao, do đó thường phụ thuộc lẫn nhau. Nhà khoa học có trách nhiệm chia sẻ dữ liệu, kết quả và phương pháp nghiên cứu, lý thuyết, thiết bị… với đồng nghiệp, cho họ tiếp cận dữ liệu của mình, nếu cần thiết. Ngoài ra, NCKH là một cuộc tranh tài về ý tưởng và các khái niệm mới nhất không nằm trong mô thức (paradigm) hiện hành. Cuộc “tranh tài” này có thể dẫn đến những xung đột nghiêm trọng. Do đó, cởi mở và thành thật trong tranh luận là những yếu tố đạo đức đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các tiến bộ khoa học. Quy trình bình duyệt công trình nghiên cứu là một bước quan trọng trong việc thực hiện các NCKH. Những thói ganh tị, thành kiến hay mâu thuẫn cá nhân có thể làm cho hệ thống này bị thất bại. Do đó, khi phê bình một nghiên cứu của đồng nghiệp, nhà khoa học nên tập trung vào tính hợp lý khoa học và logic của nghiên cứu, chứ không nên dựa vào những cảm nhận cá nhân.

Nguyên tắc thứ năm là ghi nhận công trạng thích hợp. Nhà khoa học phải ghi nhận những đóng góp của các nhà khoa học đi trước và tuyệt đối không lấy nghiên cứu của người khác làm thành tích của mình. Tri thức khoa học mang tính tích lũy và được xây dựng dựa vào những đóng góp của nhiều nhà khoa học trong quá khứ và hiện tại. Ghi nhận công trạng của họ là một quy ước về đạo đức khoa học, và hình thức ghi nhận có thể được thể hiện qua tài liệu tham khảo, lời cảm tạ, hay cho họ cơ hội đứng tên đồng tác giả. Sử dụng công trình hay ý tưởng của đồng nghiệp mà không ghi nhận là một vi phạm đạo đức khoa học. Ngày nay, một công trình NCKH, nhất là khoa học thực nghiệm, là thành quả của nhiều cá nhân. Do đó, ai có tư cách đứng tên tác giả đôi khi trở thành một vấn đề tế nhị. Theo quy ước chung, nhà khoa học có tư cách đứng tên tác giả nếu hội đủ tất cả 3 tiêu chuẩn: Một là đã có đóng góp quan trọng trong việc hình thành ý tưởng và phương pháp nghiên cứu, hay thu thập, phân tích và diễn dịch dữ kiện; hai là đã soạn thảo bài báo hay kiểm tra nội dung tri thức của bài báo một cách nghiêm túc; ba là phê chuẩn bản thảo sau cùng để gửi cho tạp chí.

Nguyên tắc thứ sáu là trách nhiệm trước công chúng. Phần lớn HĐKH là do tài trợ từ đóng góp của người dân; do đó, nhà khoa học phải có nghĩa vụ công bố những gì mình đạt được cho công chúng biết. Hình thức công bố có thể là những ấn phẩm khoa học hay những trao đổi trên các diễn đàn quần chúng. Tất cả các cơ sở vật chất sử dụng cho nghiên cứu, kể cả thiết bị, hóa chất, tài chính… là tài sản chung của xã hội; do đó, chúng cần được sử dụng sao cho đem lại lợi ích cao nhất cho xã hội. Các động vật và bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu được xem là “vốn xã hội” và cần phải được tuyệt đối tôn trọng.

Mục tiêu quan trọng của khoa học là nhằm mở rộng tri thức con người về các lĩnh vực như vật lý, sinh học, xã hội… Mở rộng ở đây có nghĩa là đi ra ngoài, đi xa hơn những gì đã được biết. Nhưng một tri thức mới hay một khám phá mới chỉ có thể đi vào phạm trù khoa học khi nó đã được thẩm định và lặp lại một cách độc lập. Quá trình này có thể thực thi bằng nhiều cách: Nhà khoa học thảo luận với cấp trên, với đồng nghiệp, trong các hội nghị quốc tế, hội nghị quốc gia, seminar, hay thậm chí bên bàn cà phê. Do đó, có thể xem HĐKH là một việc làm mang tính xã hội, chứ không phải là một nỗ lực đi tìm sự thật trong cô đơn, lặng lẽ. Vì mang tính xã hội, nên các chuẩn mực về đạo đức khoa học phải là một “thể chế” của bất cứ trung tâm khoa học nào, và phải được xem như là quy ước ứng xử và là một mục tiêu của khoa học.

Sinh viên và các nghiên cứu sinh từ các trường đại học là những người sẽ chiếm giữ các vị trí quan trọng trong xã hội như nhà lãnh đạo, nhà khoa học và GS tương lai, và việc cho họ biết về các tiêu chuẩn đạo đức khoa học là một biện pháp để đảm bảo sự ổn định của xã hội cho các thế hệ tiếp nối. Vì thế, trường đại học có nhiệm vụ truyền đạt các chuẩn mực về đạo đức khoa học, chứ không nên trông chờ vào các hội đoàn chuyên môn. Hệ thống chuẩn mực về đạo đức khoa học còn là một phương tiện để phòng chống các tiêu cực trong khoa học. Thật vậy, phần lớn những nhân vật gian lận trong khoa học thường không quan tâm đến các chuẩn mực khoa học. Hiện nay, trong bối cảnh nước ta đang có chiến dịch phòng chống tham nhũng, kể cả tham nhũng trong khoa học, vấn đề truyền đạt các chuẩn mực đạo đức khoa học trong các trường đại học thiết nghĩ còn cấp thiết hơn nữa.

Nguồn: Nguyễn Tuấn; https://phapluatdansu.edu.vn/